Trong Tin Mừng Chúa Giêsu tố cáo nhóm luật sĩ và biệt phái lợi dụng tôn giáo mà bỏ bê việc phụng dưỡng cha mẹ.
Thảo kính cha mẹ là một giới răn mà Chúa Giêsu không hề hủy bỏ, trái lại Người làm nên trọn Người hướng dẫn và ban ơn để chúng ta sống trọn chữ hiếu cách đúng đắn và đầy đủ .
Trên thập giá trước khi lìa đời, Người đã trối Mẹ mình cho thánh Gioan để Mẹ Mình có người chăm sóc
. Hơn hết, Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết trên thập giá, vì biết cái chết của mình sẽ mang lại ơn cứu độ cho mọi người, sẽ tỏ cho mọi người thấy tình phụ tử tuyệt hảo của Chúa Cha.
Nhờ mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa Cha là nguồn của mọi tình phụ tử trên trời dưới đất, cho nên có thể nói ông bà cha mẹ là tấm gương phản chiếu tình thương bao la của Thiên Chúa đối với ta.
Đạo hiếu là trường học giúp chúng ta hiểu biết và sống Tin Mừng, Thiên Chúa là Cha của mọi người và tình mẹ cha nói lên tình Chúa.
Công sinh thành dưỡng dục của ông bà, cha mẹ tuy lớn lao, nhưng ông bà cha mẹ chỉ làm ơn ích cho chúng ta theo khả năng nhận được từ Thiên Chúa .
Hiếu thảo ông bà, cha mẹ là cách thích đáng tỏ lòng tri ân đối với Thiên Chúa.
Lòng hiếu thảo không chỉ là đức tính nhân bản, nhưng là một nhân đức mang lại sự công chính như lời sách Ðức Huấn Ca: Của dâng cho cha sẽ không rơi vào quên lãng .
Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội kêu gọi chúng ta tưởng nhớ đến công đức của ông bà cha mẹ Con xin đến trong đời, an vui nhờ có ơn Trời.
Và ơn cha mẹ, suốt đời coi nhẹ khổ đau
. Ta hãy thể hiện lòng biết ơn bằng cách thiết tha cầu xin Chúa giúp cho mẹ cha vơi đi ưu phiền, trăm năm được bình yên nếu còn sống, và hạnh phúc triền miên trên Thiên Quốc nếu đã qua đời.
Thưa anh em, kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo.2 Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa:3 để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này.Thư Thánh Phao Lô. Ep 6,1-4.18.23
Lạy Mẹ Maria kính yêu, lời đầu tiên con muốn thưa
với Mẹ là : con yêu Mẹ. Mẹ ơi, con không biết là mình đã tập yêu và
biết yêu Mẹ khi nào. Nhưng điều ấy không quan trọng. Con chỉ cần biết
một điều là con yêu Mẹ. Dù con biết tình con yêu Mẹ chỉ là hạt cát giữa
sa mạc, hay như giọt nước giữa đại dương so với tình Mẹ yêu con. Nhưng
con vẫn muốn thân thưa với Mẹ là con yêu Mẹ.
Con yêu Mẹ bởi Mẹ đã
một đời hy sinh vì con…cho con được sự sống đời đời. Mẹ đã đồng công
trọn vẹn trên đường khổ hình với Con Một yêu dấu của Mẹ - Thầy Giêsu Chí
Thánh của con để cứu rỗi con, anh chị em con và toàn nhân loại. Mẹ
chưa một lần sống cho mình, chưa một giờ nghĩ đến mình mà chỉ nghĩ tới
việc sao cho danh Cha cả sáng, cho tiếng “Xin Vâng “ được trọn vẹn ý
nghĩa…Hôm nay Mẹ lên trời, con quỳ đây nhớ Mẹ….Nhớ Mẹ… con thầm suy niệm
về Mẹ, về các nhân đức của Mẹ..và thưa Mẹ, con muốn đi về Nagiarét để
tìm Mẹ, hỏi Mẹ…Mẹ ơi, tại sao Mẹ lại can đảm nói tiếng “Xin Vâng” khi
tuổi đời của Mẹ toàn là một màu hồng…tuổi mà mọi người thiếu nữ đều lo
dệt cho riêng mình một tương lai tươi sáng? Và khi tiếng Xin Vâng vừa
cất lên thì Ngôi Hai Thiên Chúa đã hạ mình ngự xuống nơi cung lòng
Mẹ…chính ngay giây phút thần thiêng trọng đại ấy Mẹ đã là Mẹ Thiên Chúa,
Mẹ Nhân Loại…Và việc làm đầu tiên của Mẹ Thiên Chúa là ra đi đem Thiên
Chúa đến cho nhân loại…đi cách vội vả… đi không ngại gian nan, vất vả,
gian khó, nhọc nhằn, vượt núi, băng đèo đến tận miền xa xăm để thăm dì
Elizabeth và đã lưu lại đó độ chừng ba tháng để chăm sóc tận tụy cho Dì
rồi mới trở về nhà. (Lc 1, 56 ) …Tại sao Mẹ lại hạ mình đến thẳm sâu để
phục vụ cho con người ? Mẹ ơi, tại sao Mẹ lại sống thầm lặng một đời
nơi xóm nghèo Nagiarét vậy ? Sao Mẹ lại cam lòng sinh Thiên Chúa – Vua
Trời Đất- Đấng Ngàn Trùng Chí Thánh nơi hang bò lừa giữa đồng hoang
lạnh lẽo vậy ? Tại sao Mẹ lại ôm con thơ, dầm mình trong đêm đông sương
gió vội vã trốn sang xứ người vậy Mẹ ?
Mẹ ơi, khi ngồi dệt chiếc
áo cho Chúa Con chí ái, lòng Mẹ nghĩ gì ? Ngày Chúa Giêsu, Thánh Tử của
Mẹ, Anh Cả của chúng con giã từ Mẹ lên đường thi hành Thánh Ý Cha….Mẹ
có đứng tựa cửa dõi mắt nhìn theo con mình…hay lúc ấy Mẹ đang quỳ lặng
lẽ nguyện cầu, gởi lòng mình theo mỗi bước chân con trên dặm đường xa…?
Khi biết chắc con mình đi mà không ngày trở lại…lòng Mẹ đau đến ngằn nào
? Và còn lại một mình giữa căn nhà quạnh vắng, đêm đêm Mẹ có khóc ? Rồi
những năm tháng dài sau đó….Mẹ đã sống như thế nào khi tuổi già chồng
chất….nổi cô đơn chất chồng… Con biết Mẹ đã lặng lẽ đi tìm thăm Anh
Cả….đứng từ xa để nhìn Anh…đứng từ xa để nghe những lời chỉ dạy bảo ban
của Anh….
Và rồi ngày Mầu Nhiệm Cứu Rỗi được thể hiện cho toàn
nhân loại đã đến…ngày đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại, ngày đau
thương nhất đời của Mẹ và Chúa Con đã đến…Người ta bắt Con của Mẹ đem đi
giết…Mẹ lặng lẽ đi theo từng bước chân của Con lên đồi Can-vê… Mỗi bước
chân đi như mỗi nhát dao đâm vào tim Mẹ. Mẹ vẫn lặng thinh bước…và
bước…Bước để nghe những lời nhục mạ, vu khống, kết tội của loài người
trút lên Thiên Chúa - Con yêu dấu của Mẹ…Bước theo để thấu cảm hết những
nỗi đau thương mà con người đã gây ra cho Thiên Chúa… Mẹ đau đớn với
những roi đòn con người ta vút vào Thánh Thể Chúa…thịt da Thiên Chúa nát
bấy…Mẹ lặng nhìn Thịt Máu con mình rơi rớt trên đường mà lòng đau đớn
như chính thịt máu Mẹ rơi rớt vậy... Mẹ im lặng để nghe tiếng búa đóng
đinh con mình vang dội như đóng vào chính tâm hồn Mẹ …Và Mẹ lại lặng
thinh đứng nhìn con mình bị treo trên Thánh giá…. Lặng nhìn những giọt
mồ hôi hòa lẫn với máu ướt đẫm thân Con mà như ướt đẫm trái tim Mẹ, lặng
nhìn Con hấp hối thân tàn dị dạn đến kinh hoàng ...Và lặng nhìn Con
trút hơi thở cuối đời…và lặng thinh ôm con với niềm phó dâng tuyệt đối
vào Thiên Chúa Cha nhân từ…lòng thầm thỉ xin Cha ban cho Chúa Con một
huyệt đá để an táng. Bởi vì con Mẹ một đời không chỗ tựa đầu….đến giờ
chết cũng thế….
Lạy Mẹ kính yêu ! Con biết rồi ! Với trí khôn hạn
hẹp của con, con biết tại sao Mẹ lại can đảm đến phi thường chấp nhận
hết mọi đau thương, khốn khổ, cay đắng nhất….Tất cả chỉ vì một lòng yêu
…. Mẹ yêu Chúa, yêu người, yêu quá đổi nên Mẹ chẳng ngần ngại nói tiếng
Xin Vâng, chẳng ngần ngại hiến dâng Con Một của Mẹ cho Đức Chúa Cha để
xin ơn tha thứ cho chúng con. Và cũng vì quá yêu những đứa con bé nhỏ
vụn dại, yếu đuối đầy tội lỗi nên Mẹ đã đồng công với Đức Chúa Con cách
trọn vẹn trên con đường thương khó, đã hy sinh một đời vì Nước Chúa, vì
nhân loại….cho chúng con được sự sống đời đời…Để được như vậy Mẹ đã chọn
Nghèo Hèn làm hành trang, Phó Thác tuyệt đối làm bạn, đồng hành với Xin
Vâng trọn niềm, Tin Cậy Mến vững vàng vào Thiên Chúa trọn đời. Là ra
đi, dấn thân không mệt mõi, là yêu thương,quên mình sẵn sàng hy sinh
cho toàn nhân loại vì nhân loại để Danh Cha cả sáng….và còn bao là nhân
đức khác nữa nơi Mẹ mà không có ngôn từ nào để diễn tả hết được…Con biết
nói gì trước tình yêu bao la thẳm sâu mà Mẹ đã tặng ban cho con, cho
đại gia đình Phan sinh của chúng con cũng như toàn nhân loại…Con biết ca
khen, chúc tụng Mẹ như thế nào để cho xứng đáng đây ? Mẹ ơi, giờ đây
con chỉ biết nói tiếng cảm tạ và cảm nhận những gì mà Mẹ đã hy sinh và
tặng ban cho chúng con. Tạ ơn Mẹ đã yêu thương chúng con vô vàn, luôn
yêu thương và yêu thương chúng con mãi mãi. Hôm nay, kính nhớ Mẹ Lên
Trời con viết đôi giòng đơn sơ dâng kính Mẹ như một chút tâm tình thay
cho lòng thảo kính. Xin Mẹ cho chúng con được ơn yêu mến Mẹ không thôi,
yêu Mẹ suốt đời và học tập theo gương Mẹ. Bởi vì yêu Mẹ là yêu Chúa. Học
tập theo gương Mẹ là điều đẹp lòng Chúa muôn vàn. Có Mẹ bên đời, chúng
con nào sợ chi ba thù khuấy khuất, bước theo Mẹ chúng con an tâm, vững
dạ. Có Mẹ dắt dìu, nâng đỡ chắc chắn đoàn con sẽ được an bình vui bước
lên Quê Trời.
Lạy Mẹ Maria con yêu Mẹ, con tôn sùng Mẹ suốt đời . Amen.
Trong bài giảng Thánh Lễ sáng Thứ Năm, 23 tháng Giêng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về ghen tương và đố kỵ như những
cánh cửa mà qua đó ma quỷ xâm nhập vào thế giới. Đức Thánh Cha đã trình bày những suy tư của ngài liên quan đến bài đọc Một trích từ sách Samuel Quyển Thứ Nhất, thuật lại rằng, sau khi những dũng sĩ được tuyển chọn đã thắng được quân Phi-li-tinh nhờ sự can đảm của Đa-vít, những người phụ nữ Israel đã tràn ra đường phố ca hát và nhảy múa, và để gặp vua Sau-lơ. Sau-lơ rất đỗi hạnh phúc nhưng có một điều ông không hài lòng. Nghe những người phụ nữ hát vang ca ngợi Đa-vít, "cay đắng và nỗi buồn" xuất hiện trong tim của Sau-lơ. Ông đã rất giận dữ với những lời hát này.
Như thế, "một chiến thắng vĩ đại đã biến thành một thất bại to lớn trong trái tim nhà vua, người đang phải gặm nhấm cùng một niềm cay đắng đã làm tan nát con tim Cain."
Lúc Chúa hỏi Cain “Sao ngươi tức giận? Sao sắc mặt ngươi tối sầm như thế?” thần sắc của Cain lúc đó thế nào, thì thần sắc của Sau-lơ giờ đây cũng thế.
Đức Thánh Cha giải thích rằng "con sâu của ghen tương dẫn đến sự oán giận, ganh ghét, cay đắng và kích thích cả những phản ứng bản năng như giết đối phương đi. Không phải ngẫu nhiên mà cả Sau-lơ và Cain đều quyết tâm giết người . Chính ghen tương và đố kỵ đã khiến Sau-lơ quyết định giết Đa-vít đi.
Thực tế này cùng được lặp đi lặp lại ngày hôm nay trong trái tim chúng ta. Đó là những trăn trở dằn vặt tim ta, khiến ta không thể chấp nhận việc anh chị em chúng ta có được một cái gì đó mà chúng ta không có. Và do đó "thay vì ca ngợi Thiên Chúa, như những người phụ nữ Israel đã làm trong chiến thắng" chúng ta muốn rút lui vào chính mình để "hầm cho nhừ cảm xúc của chúng ta, luộc đi luộc lại chúng trong nồi nước lèo cay đắng."
Ghen tương và đố kỵ là những cánh cửa thông qua đó ma quỷ thâm nhập vào thế giới này. Chính Kinh Thánh đã khẳng định như thế: "qua những đố kỵ của ma quỷ mà cái ác đã nhập vào thế giới".
Ghen tương và đố kỵ mở tung cửa cho mọi điều ác, gây ra xung đột thậm chí giữa các tín hữu với nhau. Đức Thánh Cha đã đề cập một cách rõ ràng cuộc sống của các cộng đồng Kitô giáo, và nhấn mạnh rằng khi một số thành viên ghen tương và đố kỵ, các cộng đoàn này kết thúc trong chia rẽ. Đức Thánh Cha Phanxicô gọi sự chia rẽ này là một "chất độc cực mạnh", tương tự như chất độc được tìm thấy trong những trang đầu tiên của Kinh Thánh, trong trình thuật về câu chuyện của Cain và Abel .
Đức Thánh Cha cũng đã mô tả những gì xảy ra trong con tim của một người đang chất chứa những ghen tương và đố kỵ. Đầu tiên là cay đắng: “người ghen tương và đố kỵ là một người cay đắng, người ấy không hát, không ngợi ca, không biết niềm vui là gì, vì mải miết kiếm tìm những gì người khác có mà mình không có”. Và thật là không may, cay đắng “lây lan qua toàn bộ cộng đoàn” vì tất cả những người rơi vào trạng thái nhiễm chất độc này trở thành “những kẻ gieo vãi đắng cay”.
Hoa quả độc hại thứ hai của ghen tương và đố kỵ là tin đồn. Có những người không thể chấp nhận để cho bất cứ ai khác có được bất cứ điều gì và do đó, “giải pháp là đạp người khác xuống, để tôi vươn lên một chút cao hơn. Và công cụ để thực hiện điều này là tin đồn: cứ tìm đi và bạn sẽ thấy rằng ghen tương và đố kỵ luôn ẩn núp đằng sau những tin đồn.”
Tin đồn chia rẽ các cộng đoàn, và phá hủy cộng đoàn. Nó là vũ khí của ma quỷ. Bao nhiêu cộng đoàn Kitô hữu xinh đẹp mà chúng ta đã từng thấy họ thăng tiến mạnh mẽ dường nào nhưng sau đó những con sâu của ganh ghét và đố kỵ chui vào một số thành viên của cộng đoàn và nỗi buồn ập đến khi họ có hành vi phạm tội.
Do đó, Đức Thánh Cha cảnh báo rằng chớ quên bài học của Sau-lơ: sau một chiến thắng vĩ đại, một quá trình thất bại có thể bắt đầu ngay tức khắc. Thánh Gioan Tông Đồ cảnh cáo chúng ta: “Ai ghét anh em mình thì là một kẻ giết người.” Và một người ghen tị là một người đang bắt đầu ghét anh em mình.
Đức Thánh Cha kết luận bài giảng của ngài với niềm hy vọng rằng: “Hôm nay, trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy cầu nguyện cho các cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta, để hạt giống của ghen tương và đố kỵ không thể được gieo giữa chúng ta, để ghen tương và đố kỵ không có chỗ trong con tim chúng ta, và trong trái tim của cộng đoàn chúng ta. Như thế, chúng ta có thể tiếp tục vui vẻ ca ngợi Chúa. Ân sủng giúp chúng ta không rơi vào nỗi buồn, vào sự oán giận, vào ghen tương và đố kỵ là một hồng ân lớn lao.”
Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên
thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la
phèng phèng
Giả như tôi được ơn nói
tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có
được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi
cũng chẳng là gì.
Giả
như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi
để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi
Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc . không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù
không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời.
Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng
còn
Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn
Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết
như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì
tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con.
Bây giờ chúng ta thấy
lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi
biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa
biết tôi
.Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.
1. Tên gọi chính thức của Dòng Ba Phanxicô là gì?
Tên
gọi chính thức của Dòng Ba Phanxicô nay là Dòng Phan Sinh Tại Thế, Ordo
Franciscanus Saecularis được tắt là O.F.S, Dòng cũng nhận biết qua danh
xưng Huynh Đệ Đoàn PSTT. 2- Bản luật hiện hành được phê chuẩn như thế nào?
Đức
Giáo Hoàng Phaolô VI đã phê chuẩn Luật mới của dòng PSTT ngày 24 tháng 6
năm 1978, khi Ngài ban bố Tông Thư “Vị Tổ Phụ Chí Ái” (Seraphicus
Patriarcha). 3- Trong quá trình lịch sử, Dòng PSTT đã có bao nhiêu bản luật chính thức?
Trước
bản luật sau cùng này, Dòng PSTT đã có hai bản luật khác: một do Đức
Giáo Hoàng Nicolas IV phê chuẩn ngày 17 tháng 8 năm 1289 qua Sắc dụ
Supra Montem; và hai do Đức Giáo Hoàng Lêô XIII phê chuẩn ngày 30 tháng 5
năm 1883 qua Sắc dụ Misericors Dei Filius. 4- Trước các bản
luật này mà Giáo Hội đã chính thức phê chuẩn, còn có những luật lệ hay
qui tắc khác do Thánh Phanxicô đặt ra không?
Những qui tắc
đầu tiên do thánh Phanxicô đặt ra cho những người tại thế được chứa đựng
trong lời khuyên bảo ngắn do chính Cha Chí Ái viết ra dưới tựa đề là
“Lời Khuyên Bảo của thánh Phanxicô gửi anh chị em sống đời đền tội”.
Không lâu sau “Lời Khuyên Bảo” này, thánh Phanxicô đã viết ra “Lá Thư
gởi tất cả các tín hữu”, trong đó Ngài giải thích sâu xa hơn và đem áp
dụng những gì Ngài đã viết trong “Lời Khuyên Bảo” trước đó.
Vào năm
1221, Giáo Hội đã công bố một bản luật cho những nhóm “đền tội” từ nhiều
nơi khác nhau mọc lên. Bản luật này được gọi là “Bản Ghi Nhớ Dự Phóng
Đời Sống của các anh chị em sống đời đền tội”. Bản luật gồm có 39 điều
khoản. Có lẽ Đức Hồng Y Hugôlinô, sau trở thành Đức Giáo Hoàng Grêgôriô,
đã biên soạn.
Thánh Phanxicô đã mong muốn “Nhóm Đền Tội” của Ngài đón nhận làm của mình “Bản Ghi Nhớ Dự Phóng Đời Sống” này. 5- Tại sao cần phải đề ra một bản luật mới cho ngày hôm nay?
Cần
thiết phải đề ra một bản luật mới để cho Dòng PSTT cũng được đi vào
trong sự đổi mới chung của Giáo Hội theo như đòi hỏi của Công Đồng II;
và hơn thế nữa để đáp ứng được các nhu cầu của thời đại mới.
Tuy
nhiên ý định nguyên thủy của thánh Phanxicô không hề bị 3 bản luật được
Giáo Hội chính thức phê chuẩn, thay đổi hoặc bị phản bội. Điều đã làm là
canh tân quá khứ, làm phong phú và thích nghi quá khứ với các nhu cầu
hiện tại. 6-Bản Luật mới của Dòng PSTT có mấy phần?
Luật mới gồm có: Phần mở đầu nhan đề “Lời Khuyên Bảo” của thánh Phanxicô gửi Anh Chị Em sống đời đền tội, và 3 chương:
1- DÒNG PHAN SINH TẠI THẾ,
2- CÁCH THỨC SỐNG,
3- ĐỜI SỐNG HUYNH ĐỆ ĐOÀN.
LỜI KHUYÊN BẢO CỦA THÁNH PHANXICÔ GỞI ACE SỐNG ĐỜI HOÁN CẢI 1- Lời mở đầu của Luật Dòng mới Dòng PSTT xuất phát từ đâu?
Lời
mở đầu của Luật Dòng PSTT mới xuất phát từ chính thánh Phanxicô, vì
Ngài đã viết “Lời Khuyên Bảo” này cho ACE sống đời hoán cải không lâu
trước cả Lá Thư Gởi Các Tín Hữu của Ngài. Tính xác thực của Lời Khuyên
Bảo này đã được Cha Cajetan Esser, Ofm, quả quyết theo sau một công
trình nghiên cứu phê bình lâu dài và chính xác. Lời Khuyên Bảo này thì
cũ và ngắn hơn Lá Thư. 2- Tại sao Lời Khuyên Bảo này được chọn làm phần đầu cho Bản Luật?
Lời
Khuyên Bảo này được chọn làm lời mở đầu để cho ACE/PSTT có thể lắng
nghe tiếng nói của chính thánh Phanxicô và biết được những điều mà Vị
Sáng Lập chí ái luôn mang trong tâm trí cũng như cách thức Ngài mong
muốn các môn đệ Ngài sống. 3- Vấn đề gì được bàn đến trong Lời Khuyên Bảo?
Lời
Khuyên Bảo bàn đến Những Người Sống Đời Hoán Cải và Những Người không
muốn Sống Đời Hoán Cải qua cách dùng những lời lẽ tế nhị và trích dẫn
Phúc Âm cùng cắt nghĩa những hậu qủa của cả hai hạng người, và mời gọi
tất cả hãy thực lòng hoán cải. 4- Lời Khuyên Bảo này có phản ảnh đúng tinh thần của Thánh Phanxicô không?
Dĩ
nhiên là đúng, vì trong đó Thánh Phanxicô cho thấy cái kinh nghiệm thâm
sâu của việc Ngài hoán cải, khi minh chứng rằng Luật và đời sống của
Ngài không khác hơn là Thánh Phúc Âm Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.
Sống
đời hoán cải và sống phù hợp với Luật Phúc Âm là hai lời dạy chính của
Thánh Phanxicô trong Lời Khuyên Bảo gửi ACE sống đời hoán cải.
CHƯƠNG I DÒNG PHAN SINH TẠI THẾ
1- Những gia đình thiêng liêng trong Giáo Hội là gì? (LD điều 1)
Đó
là các loại Hội Dòng Tận Hiến mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội như là
những giải đáp cho các nhu cầu lịch sử của các giai đoạn trong suốt dòng
lịch sử. Chẳng hạn Dòng Biển Đức, Dòng Cát Minh, Dòng Tên, Dòng
Salêdiêng vv.. Bằng cách này, Thiên Chúa trợ giúp Giáo Hội chu toàn công
cuộc cứu độ. 2- Tại sao lại nói rằng “Các gia đình thiêng liêng này được Chúa Thánh Linh khơi lên trong Giáo Hội”?
Vì
sự xuất hiện của mỗi Đấng Sáng Lập trong lịch sử Giáo Hội cũng như
trong lịch sử Dòng của Ngài, được coi là một đoản sủng đặc biệt hay một
ơn thiêng mà Giáo Hội lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần. Mỗi Đấng Sáng Lập
hoàn thành công việc được Chúa Thánh Thần linh hứng. Giáo Hội xem xét,
trắc nghiệm và chuẩn nhận những ân thiêng hay đoản sủng này. Do đó chúng
ta nói là “Giáo Hội phê chuẩn”. Nơi mỗi Đấng Sáng Lập có một lời mời
gọi, một ơn soi sáng đảm nhận cùng với các môn đệ mình một dịch vụ đặc
biệt cho thế giới và xã hội. Lời mời gọi hoặc ơn soi sáng này đưa họ dến
một lối sống Phúc Âm riêng biệt. Đó là điều giải thích sự khác biệt
giữa các gia đình tu sĩ khác nhau trong Giáo Hội. Chúa Thánh Thần gieo
trong mỗi gia đình tu sĩ những ơn huệ hay đoản sủng cần thiết để chu
toàn công việc được giao phó, và khuyến khích sống Phúc âm theo cách
thức riêng biệt của mình (đó là tinh thần đặc biệt của mỗi Dòng) 3- Gia dình Phan Sinh gồm những ai?
Cơ
bản gia đình Phan Sinh gồm 3 dòng: Dòng Nhất gọi là Dòng Anh Em Hèn
Mọn; Dòng Nhì gọi là Dòng Chị Em Thanh Bần hay Dòng Clara; Dòng Ba gốc
gác là Anh Chị Em Đền Tội, mà nay gọi là Phan Sinh Tại Thế.
Trong quá
trình 3 Dòng này phát triển ra thành nhiều nhánh khác. AEHM được chia
ra thành nhánh Tuân Thủ , nhánh Viện Tu, nhánh Lúp Vuông; và cũng phải
kể đến các nhánh Dòng Ba Tại Viện.
Dòng Clara chia thành các nhánh Colêtine, Com-cep-ti-o-nit, Lúp Vuông…
Trong
thời gian hiện nay, nhiều Dòng, đặc biệt là phái nữ, đã chọn Luật của
Dòng Ba và lập ra các nhánh Dòng Ba Tại Viện, tách biệt ra khỏi Dòng Ba
Tại Thế.
Gia đình Phan Sinh, gồm mọi chi nhánh, là một trong những
gia đình tu sĩ đông nhất trong Giáo Hội. Hiện nay có chừng 30 ngàn tu sĩ
Dòng Nhất, 18 ngàn nữ tu Dòng Nhì, 150 ngàn tu sĩ nam nữ Dòng Ba Tại
Viện; và 1 triệu 500 ngàn đoàn viên Dòng Ba Tại Thế (PSTT). 4- Câu nói: “Bằng những cung cách và hình thức khác nhau nhưng luôn hiệp thông hỗ tương cốt thiết” có nghĩa là gì?
Điều này có nghĩa:
-
Tất cả các nhóm khác nhau trong gia đình Phan Sinh đều nhìn nhận thánh
Phanxicô thành Assisi là người Cha Chí Ái và là vị sáng lập chung.
- Bằng những cung cách khác nhau, tất cả đều sở hữu chung một đoản sủng và tinh thần Phan Sinh.
-
Mọi thành phần của Dân Chúa, giáo dân, tu sĩ, linh mục hay thành phẩn
của hành giáo sĩ đều có thể thuộc về Gia đình Phan Sinh. Mỗi người trong
các thành phần này đều có thể làm phong phú cho Gia đình Phan Sinh,
bằng cách hoàn thành ơn gọi hoặc sứ vụ riêng trong Hội Thánh. Tất cả đều
chấp nhận lẫn nhau, liên kết và bổ túc cho nhau. Anh em Dòng Nhất và
Dòng Nhì cung cấp kinh nghiệm tôn giáo của lối sống Phan Sinh cho Anh
chị em PSTT, và ngược lại nhận từ ACE/PSTT kinh nghiệm tôn giáo của
người Phan sinh sống giữa chợ đời.
Mối tương quan huynh đệ giữa tất
cả các thành viên cần được cổ võ qua sự đối thoại tích cực, sự cộng tác
có tổ chức và các cơ cấu liên kết. Đặc biệt nhất là sự trợ giúp tinh
thần của Anh em Dòng Nhất, Chị em Dòng Nhì, và Anh chị em Dòng Ba Tại
Viện. 5- Dòng Phan Sinh Tại Thế được định nghĩa như thế nào? (LD điều 2)
Giáo
luật điều 303 định nghĩa: “Ðược gọi là Dòng Ba hay với tên nào khác
tương tự các Hiệp Hội gồm các thành viên sống giữa đời, nhưng dự phần
vào tinh thần thiêng liêng với một Dòng tu, làm việc tông đồ và tiến tới
sự hoàn thiện dưới sự điều hành tối cao của Dòng tu đó.” và luật Dòng
PSTT hiện tại nêu rõ: “Dòng Phan Sinh Tại Thế có một vị trí riêng biệt.
Dòng này biểu hiện như một liên hợp mật thiết gồm tất cả các Huynh đệ
đoàn Công giáo và mở rộng tới các nhóm của mọi tín hữu trên khắp hoàn
cầu, trong đó anh chị em, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh để đạt
tới đức ái trọn hảo trong bậc sống tại thế qua lời tuyên khấn, tự buộc
mình sống Phúc Âm theo cách thức Thánh Phanxicô và nhờ sự hỗ trợ của
Luật Dòng này đã được Hội Thánh phê chuẩn (Ld. #2) 6- Đâu là ý nghĩa của câu: “Dòng PSTT biểu hiện như là một liên hiệp mật thiết”?
Điều
này có nghĩa là Dòng PSTT là một Hiệp hội trong Hội Thánh, có những dấu
hiệu riêng biệt, bao gồm một tổ chức hay cơ cấu nội tại và đầy đủ, được
điều hành bởi các quy tắc và lề luật được Hội Thánh công nhận. Các quy
tắc và luật lệ điều hành Dòng PSTT là: Bộ Giáo Luật, Luật Dòng PSTT,
Tổng Hiến Chương, và Nội Quy riêng. 7- Đâu là ý nghĩa của
câu: “Dòng PSTT gồm tất cả các huynh đệ đoàn Công Giáo và mở rộng tới
các nhóm của mọi tín hữu trên khắp cả hoàn cầu”?
Dòng PSTT được mở ra cho mọi miền trên thế giới, không phân biệt nòi giống, quốc gia, ngôn ngữ hoặc phái tính.
Trong chương ba của Luật Dòng, chúng ta sẽ thấy tổ chức của Dòng PSTT căn bản là các HĐĐ địa phương, miền, quốc gia và quốc tế.
Để
được nhận làm thành viên của PSTT, điều kiện không thể thiếu phải là
người Công Giáo. Anh em Tin Lành và Anh Giáo hiện đang có một lòng
ngưỡng mộ lớn đối với Thánh Phanxicô; và một số, trong đường hướng riêng
của họ, đi theo linh đạo Phan Sinh. Dầu vậy, họ không thuộc về Dòng
PSTT được. 8- Câu nói: “Các HĐĐ PSTT được mở rộng tới các nhóm tín hữu”, nghĩa là gì?
Có
nghĩa là mọi người Công Giáo, đàn ông, đàn bà, trẻ em, thanh niên và
người cao tuổi, độc thân, lập gia đình và goá bụa đều có thể trở thành
người PSTT. Tổng Hiến Chương ấn định các điều kiện gia nhập Dòng PSTT
như tuổi tác…
Các thành viên hàng giáo sĩ của Hội Thánh (Đức Giáo
Hoàng, các Giám Mục, Linh Mục, và Phó Tế) cho dù không phải là giáo dân,
cũng được gia nhập PSTT. 9- Câu nói: :Trong các HĐĐ này các anh chị em dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh để đạt tới Đức Ái trọn hảo”, nghĩa là gì?
Những
ai gia nhập Dòng PSTT đều có một ơn gọi đích thực hay đặc sủng. Một ơn
gọi hay đặc sủng như thế được Chúa Thánh Linh tự do ban cho những ai
Người chọn. Điều này cũng có nghĩa là ứng sinh, khi gia nhập Dòng PSTT,
quyết định theo đuổi một mức độ cao hơn của sự trọn lành, càng cao càng
tốt, và như thế họ hoàn thành ơn gọi của người chịu Phép Rửa. 10- Các thành viên của Dòng PSTT “cố gắng đạt tới Đức Ái trọn hảo trong bậc sống tại thế của mình” nghĩa là gì?
Khi
gia nhập Dòng PSTT, ứng sinh vẫn giữ tư thế của mình là “tại thế”;
nhưng cũng trong tư thế này họ có thể và phải cố gắng sống một cuộc sống
thánh thiện, vì mỗi người đều được mời gọi nên thánh. Tư cách “tại thế”
không phải là một điều kiện tiêu cực chỉ miễn cưỡng chấp nhận, nhưng
cũng là một ơn gọi để sống và một sứ vụ để thực thi. Trách nhiệm của
người “tại thế” trong Hội Thánh là đảm nhận những công việc trần thế và
qui hướng chúng về các ý định của Thiên Chúa; đây là một ơn gọi riêng
biệt cho họ và là sứ mạng đặc thù của họ. Với tư cách là “tại thế”, ở
lại trong vòng gia đình, họ phải chu toàn các bổn phận của đấng bậc mình
và quan tâm đến các việc trần thế của công ăn việc làm và nghề nghiệp
của mình. 11- Phải hiểu như thế nào về câu nói: “người PSTT qua lời tuyên khấn tự buộc mình sống Phúc Âm theo cách thức Thánh Phanxicô”?
Qua
lời tuyên khấn, ứng sinh tự buộc mình trước mặt Hội Thánh; họ chấp nhận
một ràng buộc thật sự, chính thức và thường hằng, để sống Phúc Âm theo
cách thức thánh Phanxicô, nghĩa là như thánh Phanxicô hiểu, sống và dạy
Phúc Âm. Họ cũng khấn tuân giữ Luật và Tổng Hiến Chương của Dòng PSTT.
Hội Thánh, về phần mình, qua nghi thức phụng vụ tuyên khấn, chấp thuận
và chúc lành, một cách chính thức và trọng thể, lời tuyên khấn của người
PSTT. 12- Ai có trách nhiệm chính thức giải thích Luật Dòng PSTT? (Luật Dòng điều 3)
Việc
giải thích Luật Dòng PSTT là trách nhiệm dành riêng cho Hội Thánh: Khi
cần thiết, Toà Thánh sẽ đưa ra các giải thích qua Thánh Bộ Tu Sĩ và Tu
Hội Đời.
Mỗi người và từng người PSTT phải học tập Luật Dòng với tất
cả nghị lực, hiểu biết Luật Dòng cách đúng đắn, và làm cho Luật Dòng trở
nên một phần của cuộc sống mình. Các chuyên viên về Phan Sinh học được
mời gọi đào sâu việc học tập Luật Dòng, cắt nghĩa lịch sử và ý nghĩa của
Luật Dòng. Tuy nhiên, các khám phá này chỉ có giá trị riêng tư và học
tập thôi. Chúng trợ giúp cách hữu hiệu sự hiểu biết và thực hành Luật
Dòng. 13- Chúng ta tìm đâu ra sự giải thích và áp dụng Luật Dòng một cách có thẩm quyền?
Việc
áp dụng Luật Dòng cho toàn Dòng PSTT được thể hiện qua Tổng Hiến Chướng
và các Nội Quy riêng, cũng như qua các chú giải chính thức.
CHƯƠNG II CÁCH THỨC SỐNG
1- Luật Dòng chương II nói về điều gì?
Luật
Dòng chương II nói về linh đạo của Dòng PSTT và nhất là cách thức một
người PSTT phải sống như thế nào. Có nhiều quy chiếu về kinh nghiệm
thiêng liêng của thánh Phanxicô và về cách thức sống để chúng ta có thể
bắt chước Người trong thời đại hôm nay. Luật Dòng chỉ trình bày những ý
tưởng chính và những thái độ căn bản. Chúng cần được áp dụng và sống tùy
theo hoàn cảnh cụ thể của một HĐĐ hoặc của một cá nhân PSTT nào đó. Hãy
nhớ rằng Dòng PSTT hiện diện khắp nơi trên thế giới, và vì thế cần được
thích nghi với các não trạng và văn hoá khác nhau. Luật Dòng không ấn
định các chi tiết nhỏ nhặt, và như thế để cánh cửa mở ra cho sự sáng tạo
và nét đặc thù cá biệt của các ACE cũng như của HĐĐ. 2-
“Luật và đời sống của ACE / PSTT là tuân giữ Phúc âm của Đức Giêsu Kitô.
Chúa chúng ta” câu này nghĩa là gì? (Luật Dòng điều 4)
Nghĩa
là thánh Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là căn nguyên và
nền tảng của đời sống người PSTT. Phúc âm là nguồn mạch từ đó tuôn trào
tất cả linh đạo Phan Sinh. Phúc âm là “những tin vui” của toàn mặc khải
thần linh. Qua lịch sử cứu độ, những tin vui này tiếp tục trở nên rõ
ràng và đạt đến đích điểm nơi sự xuất hiện của Đức Kitô.
Chúng ta tìm
thấy sự mạc khải thần linh hoặc các tin vui trong Sách Thánh. Cựu ước
cũng như Tân ước. Người ta có thể nói rằng Phúc âm bao gồm toàn bộ Kinh
Thánh. Phúc âm này cần phải được hiểu theo hướng luôn mới mẻ và sâu sắc,
và như Giáo hội, được Chúa Thánh Linh hướng dẫn, giải thích. Tính cách
Phúc âm của Dòng PSTT đem lại cho các thành viên một sự bảo đảm tuyệt
đối, và nó giải thích sự trường tồn và hiện hữu của Dòng trong hiện nay.
Nó còn là một khởi điểm khơi dậy việc học hỏi sâu hơn và việc hiểu biết
đúng đắn hơn nền linh đạo. 3- “Đức Kitô qùa tặng tình thương
của Chúa Cha, là con đường dẫn tới Chúa Cha, là sự thật mà Chúa Thánh
Linh dẫn đưa cho chúng ta vào, là sự sống mà chính Người đã đến để ban
dồi dào cho chúng ta” câu này có ý nghĩa là gì?
Nghĩa là bốn
Phúc Âm và toàn bộ Kinh Thánh, với những lời giảng dạy trong đó, như là
tấm kiếng qua đó chúng ta có thể nhìn thấy, và như là cánh cửa qua đó
chúng ta có thể bước vào. Tâm điểm là chính Đức Giêsu Kitô, lời rao
giảng và cuộc sống Ngài, toàn bộ con người của Ngài. Đời sống đích thực
của người PSTT chủ yếu là sự gặp gỡ bản thân và sống động với Đức Giêsu
Kitô, Đấng thoả mãn các vấn nạn sâu xa và các khát vọng của con người.
Điều này cũng có nghĩa là lời mời gọi sống thánh thiện mà người PSTT
lãnh nhận là một lời mời gọi chia sẻ chính đời sống của Ba Ngôi Thiên
Chúa tối cao. 4- Người PSTT phải đọc Phúc Âm như thế nào?
Người
PSTT phải đọc Phúc âm không chỉ với cặp mắt thể xác và với lý trí,
không vì thích thú học hỏi hay tò mò; nhưng phải tiếp cận Kinh thánh với
niềm tin, lòng khiêm tốn, tâm hồn cởi mở; phải lắng nghe tiếng nói của
Thiên Chúa ẩn dấu một cách bí nhiệm trong các trang sách thánh. Sau khi
đã chăm chú lắng nghe và hiểu rõ, họ quảng đại thực thi Lời Chúa.
Tương
tự như thế, người PSTT hãy tìm hiểu ý nghĩa cuộc sống thường ngày, các
vấn đề và các khó khăn, thành công và thất bại, những biến cố trên thế
giới và trong lịch sử dưới ánh sáng của Lời Chúa. Đó là điều bao hàm
trong câu nói “đi từ Phúc âm đến cuộc sống, và đi từ cuộc sống đến Phúc
âm”. 5- Người PSTT tìm gặp Đức Kitô ở đâu? (Luật Dòng điều 5)
Được tinh thần siêu nhiên thôi thúc, người PSTT phải tìm gặp Đức Kitô:
-
Nơi tha nhân, là những anh chị em của mình, vì họ là con cái của cùng
một Cha trên trời; và cùng với họ xây dựng một tình huynh đệ đại đồng.
- Trong Thánh Kinh, mà tác giả chính là Thiên Chúa, và Thánh Kinh chứa đựng Lời Chúa luôn sống động và hiện hữu.
-
Trong Hội thánh, do Đức Giêsu Kitô thiết lập và Chúa Thánh Thần trợ
giúp, để trở nên phương thế và dấu chỉ ơn cứu độ cho nhân loại.
-
Trong Cử hành Phụng vụ, mà vị Tư Tế chính là Đức Kitô. Phụng vụ hiện tại
hoá các mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Giêsu Kitô, để chúng ta được
tham dự.
- Nơi con người Đức Kitô, được tìm gặp một cách đặc biệt
nơi Thánh Thể, là Bí tích đem lại ơn sủng và chứa đựng Đức Giêsu Ktô
hiện diện thực sự trong Mình, Máu, Linh hồn và thiên tính của Người.
-
Cuối cùng cũng nơi con người Đức Kitô, được tìm gặp nơi tạo vật, trong
các sinh hoạt thường ngày của chúng ta, và nơi các hiện tượng tự nhiên. 6- Đâu là ý nghĩa thiêng liêng của việc người PSTT khấn hứa? (Luật Dòng điều 6)
Việc
khấn hứa của người PSTT, mặc dầu khác với lời khấn hứa của các tu sĩ,
vẫn mang một ý nghĩa sâu sắc. Qua việc khấn hứa, người PSTT làm mới lại
lời khấn hứa khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, và làm mới lại việc hiến
dâng cho Thiên Chúa. Họ liên kết bản thân mình quảng đại hơn với mầu
nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô qua việc từ bỏ tội lỗi. 7- Tầm quan trọng nào Hội Thánh gắn cho việc khấn hứa của người PSTT?
Về
phần mình, Hội Thánh chấp thuận quyết định của người PSTT tỏ bày qua
việc khấn hứa, rồi dâng lời khấn hứa cho Thiên Chúa trong một kinh
nguyện phụng vụ và xin Thiên Chúa ban những ơn lành mới. Hành động này
của Hội Thánh đóng ấn quyết định của người PSTT, hội nhập họ đầy đủ hơn
vào đời sống của Hội Thánh, làm cho họ trở nên thành phần của gia đình
Phan Sinh.
Việc khấn hứa không những ảnh hưởng đời sống bên trong và
các nhân đức của người PSTT, mà còn cho họ trở nên dụng cụ và chứng nhân
rao giảng ơn cứu độ cho loài người qua lời nói và gương sáng của họ. 8-
Câu nói” Người PSTT hãy quyết tâm sống hiệp thông trọn vẹn với Đức
Thánh Cha, các Đức Giám Mục và các Linh mục, sẵn sàng đối thoại cởi mở
dựa trên đức tin hầu mang lại lợi ích phong phú cho hoạt động tông đồ”,
có nghĩa là gì?
Người PSTT phải bày tỏ sự vâng phục, lòng
chân thành, và phục vụ yêu thương với hàng giáo sĩ, nghĩa là với Đức
Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục và Linh Mục.
Họ phải chấp nhận sẵn sàng
cộng tác với hàng giáo sĩ và chân thành muốn tham gia vào việc mục vụ và
hoạt động cộng đoàn trong giáo phận và giáo xứ họ ở.
Họ chấp nhận
Dòng PSTT trong hình thức chọn lựa và phê chuẩn của Hội Thánh, vui vẻ
tuân phục luật lệ Hội Thánh và khích lệ sự đổi mới của Hội Thánh. 9- “Hoán cải hoăc thay đổi tận căn bên trong” có nghĩa là gì? (Luật Dòng điều 7)
Trước
hết phải nói rằng hoán cải hay đền tội không được giới hạn vào những
hành vi khổ chế bên ngoài; hoặc chỉ đơn giản giới hạn vào việc thái độ
bên trong như là một cách suy nghĩ mới thôi. Hoán cải bao hàm một điều
gì rộng rãi hơn và sâu xa hơn.
Một sự hoán cải đích thực là một sự
thay đổi con người toàn diện, sâu xa và tận thâm tâm đến nỗi có khả năng
biến đổi thái độ sống bên ngoài nữa. Hoán cải đích thực có nghĩa là tự
hiến toàn bản thân mình cho Thiên Chúa là Đấng có quyền tuyệt đối trên
chúng ta.
Bí tích Hoà giải hay Giải tội là phương thế Đức Giêsu lập
để tạo điều kiện cho sự hoán cải nơi người Kitô hữu. Do đó nguời PSTT
hãy siêng năng lãnh nhận Bí tích Hoà giải. 10- Câu nói:
“Người PSTT hãy làm cho việc cầu nguyện và chiêm niệm trở nên linh hồn
cho đời sống và hành động của mình” nghĩa là gì? (Luật Dòng điều
Người
PSTT, vốn là người Kitô hữu đích thực, hãy làm cho toàn bộ đời sống và
sinh hoạt của mình trở thành kinh nguyện liên tục, Người PSTT phải thực
hành các hình thức cầu nguyện của Hội Thánh, khẩu nguyện, và tâm nguyện,
lời cầu xin, lời kinh tạ ơn, lời kinh sám hối, và lời kinh chúc tụng.
Họ cũng hãy khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa ban cho ơn chiêm niệm.
Người
PSTT trên hết mọi sự phải tham dự tích cực lời kinh phụng vụ của Hội
Thánh, vì sự trang trọng và giá trị của nó. Và khi có thể họ hãy tham dự
Thánh lễ và rước lễ.
Mặc dầu việc đọc 12 kinh Lạy Cha không còn được
ấn định như là kinh nhật tụng nữa, nó vẫn còn tiếp tục được dùng như
thế. Còn Các Giờ Kinh Phụng Vụ, là lời Kinh chính thức và công khai của
Hội Thánh, được dâng lên mỗi ngày cho Cha trên trời nhân danh Đức Giêsu
Kitô, thì người PSTT được tha thiết mời gọi tham gia, theo một trong
những cách thức được Hội Thánh đề ra, bao gồm cả những hình thức ngắn
hơn hoặc một phần của kinh nhật tụng. 11- Người PSTT biểu lộ lòng yêu mến và sùng kính đối với Đức Trinh Nữ Maria như thế nào? (Luật Dòng điều 9)
Người
PSTT sùng kính Đức Trinh Nữ Maria rõ ràng nhất qua việc bắt chước các
nhân đức của Mẹ. Phù hợp với Phúc âm, nhân đức trổi vượt của Đức Trinh
Nữ Maria là sự dâng mình vô điều kiện trong việc chấp thuận và thực thi
Lời Chúa. Đức Maria là khí cụ ngoan ngoãn nhất trong việc thực thi
chương trình của Chúa đối với Mẹ.
Đàng khác, người PSTT hãy biểu lộ
lòng yêu mến và sùng kính đối với Đức Trinh Nữ Maria qua kinh nguyện,
đặc biệt là kinh Truyền Tin, lần hạt Mân Côi hay chuỗi Bảy Sự Vui của
Dòng Phan Sinh, và những việc đạo đức riêng khác của gia đình Phan Sinh. 12- Luật dòng dạy gì về đức vâng lời? (Luật Dòng điều 10)
Chủ
yếu Luật Dòng dạy rằng người PSTT hãy kết hợp mình với Đức Kitô bằng
việc vâng phục hoàn toàn đối với ý muốn của Chúa Cha. Sự vâng phục của
Đức Kitô đi rất xa đến nỗi Người chấp nhận sự thương khó và cái chết cứu
độ.
Vâng phục hoàn toàn có nghĩa là thuận theo ý muốn của Thiên
Chúa, không những trong các vấn đề liên quan đến các Giới Răn, mà còn
trong các vấn đề gì Người muốn hoặc khuyên bảo.
Người PSTT phải chu
toàn các bổn phận của bậc sống mình, chu toàn các đòi buộc và hướng dẫn
của các Bề Trên hợp pháp, trong Dòng cũng như trong Hội Thánh, trong các
bổn phận công dân, trong gia đình, nơi làm việc. Họ chấp nhận một cách
vui vẻ tất cả những gì xảy đến trong cuộc sống hàng ngày, vì mọi sự xảy
ra đều do ý Chúa hoặc được Chúa cho phép, vì ích lợi của chúng ta.
Vâng
phục phải luôn do một động lực siêu nhiên thúc đẩy. Người ta vâng phục
để làm vui lòng Thiên Chúa, chứ không phải làm vui lòng con người. 13- Luật Dòng dạy gì về đức khó nghèo? (Luật Dòng điều 11)
Trước
hết Luật Dòng dạy người PSTT hãy duy trì một tương quan trung dung đối
với của cải vật chất, đừng để cho con tim mình dính bén với chúng, và sử
dụng chúng như Thiên Chúa đòi hỏi và ao ước. Tư hữu và của cải không
phải là tuyệt đối; đúng hơn chúng là phương tiện cung cấp cơm ăn áo mặc
và nhà cửa. Chúng là phương tiện để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân; và
như thế chúng giúp đạt được cùng đích cuối cùng của chúng ta và phần
thưởng đời đời. 14- Luật Dòng dạy gì về đức khiết tịnh? (Luật Dòng điều 12)
Vì
người PSTT có thể là người lập gia đình, người độc thân, goá bụa, nên
Luật Dòng dùng từ “khiết tịnh trong tâm hồn” (làm cho tâm hồn được trong
sạch)
Khiết tịnh hay Trong sạch là việc sử dụng có lý trí kiểm soát
hồng ân tính dục theo luật Chúa dạy. Quan niệm này được áp dụng cho sự
trong sạch được chờ đợi nơi mọi bậc sống. Khiết tịnh hay Trong sạch
trong ơn gọi hôn nhân sẽ khác với ơn gọi của những ai không lập gia
đình. Điểm nhấn mạnh chính yếu của Luật nằm nơi các động lực và mục đích
của khiết tịnh: công bố cho thế giới biết rằng những chúc lành lớn hơn
và quan trọng hơn nằm ở trong tương lai, và giải thoát con người khỏi
tình yêu hoàn toàn xác thịt, để có thể phụng sự Thiên Chúa và con người
tốt hơn. 15- Luật Dòng dạy gì về tình huynh đệ? (Luật Dòng điều 13)
Chương
III Luật Dòng, nhan đề “Đời sống trong Huynh Đệ Đoàn”, bàn về tổ chức
hoặc cơ cấu của mỗi HĐĐ, còn ở chương II này nói về tình huynh đệ như
một thái độ đối với mọi người. Tình huynh đệ tự bản chất có huynh hướng
trở nên phổ quát và vượt qua giới hạn của gia đình. Bởi vì mọi người là
anh chị em của ta, cho nên tình huynh đệ bao trùm toàn thể nhân loại.
Tình huynh đệ chân thành nhằm không phân biết giai cấp xã hội, quan điểm
chính trị hoặc xác tín tôn giáo.
Người PSTT diễn tả tình huynh đệ
bằng trăm ngàn cách: sống giữa dân chúng, họ chứng tỏ mình luôn sẵn sàng
phục vụ và giúp đỡ mọi người cần đến mình. Họ đón nhận mọi người bằng
một thái độ tích cực và lạc quan. Họ vun trồng và thực hành các nhân đức
nhân bản, như tính đơn sơ, lịch thiệp, tính nhưng không, sự phong nhã. 16- Câu nói” “Nguời PSTT được mời gọi xây dựng thế giới huynh đệ và phúc âm hơn” nghĩa là gì? (Luật Dòng điều 14)
Luật
Dòng mong muốn người PSTT cảm nhận một cách đầy đủ rằng họ là công dân
của xã hội trần gian, hội nhập trong giòng lịch sử và trong các hiện
tượng xã hội, chính trị và văn hoá phức tạp.
Trong nhãn giới riêng
của mình, người PSTT phải nhạy cảm với các tiến bộ hiện đại (xã hội,
khoa học, kỹ thuật) của nhân loại. Sự tiến bộ, liên kết với các giá trị
thiêng liêng, tạo nên sự viên mãn của Nước Thiên Chúa trong thế giới
ngày nay và định hướng cho thế giới sẽ đến.
Người PSTT phải quan tâm đến các vấn đề quan trọng đe dọa các thế hệ hiện tại như nạn đói, thất nghiệp, bất công xã hội…
Các
vấn đề này phải được nghiên cứu học hỏi dưới ánh sáng các nguyên lý
phát xuất từ sự thật về Thiên Chúa, về Đức Kitô, về con người và thế
giới.
Việc học hỏi và suy nghĩ liên quan đến các vấn đề này có thể
được thực hiện qua một khoá học có hệ thống và tổ chức về học thuyết xã
hội của Hội Thánh; cũng có thể là qua việc quan sát đời sống mỗi ngày
chung quanh chúng ta với các hậu quả kèm theo. Những việc học tập và suy
nghĩ này phải đi đến những kết luận thực tiễn và cụ thể. 17- Làm sao để người PSTT có thể được huy động vào trong những việc thăng tiến công bằng xã hội? (Luật Dòng điều 15)
Người
PSTT phải luôn luôn có một sự lựa chọn rõ ràng minh bạch là bênh vực
quyền lợi của mỗi con người. Họ phải cổ võ phẩm giá con người toàn diện
và toàn thể nhân loại khi đòi hỏi sự tự do hoàn toàn khỏi mọi kỳ thị và
phân biệt đối xử. Các vấn đề thuộc phạm vi công bằng xã hội thường rất
nghiêm trọng trong thời đại chúng ta và đòi hỏi những sáng kiến có lương
tâm, mạnh bạo và hiệu năng nơi các cá nhân và tập thể được đức tin soi
sáng và được quyền giáo huấn của Hội Thánh hướng dẫn.
Vì không phải
dễ dàng để ấn định phương thế hoặc lối xử sự của các cá nhân trong các
hoàn cảnh cụ thể nào đó, người PSTT, sau khi lượng định hoàn cảnh càng
chính xác càng tốt, phải chạy đến các giáo huấn của Hội Thánh trong lãnh
vực đặc thù này, và rồi trung thành và với sự hăng say thực hành các
đường hướng.
“Chứng tá đời sống” như Luật Dòng nói là đóng góp tốt
nhất mà người PSTT có thể làm trong phạm vi công bằng; và điều này không
bao giờ được bỏ qua.
Chứng tá đời sống này tương đương với việc rao
giảng Phúc âm về tình thương. Các vấn đề xã hội chỉ được giải quyết bởi
và với ngọn lửa của tình thương Kitô giáo. 18- Đâu là thái độ phải có của người PSTT đối với việc làm? (Luật Dòng điều 16)
Đừng
coi việc làm như một khổ hình hoặc một gánh nặng, nhưng như là một sự
chúc lành của Thiên Chúa nhằm phát huy sự sáng tạo của con người. Trong
thức tế, việc làm của con người cho dù khiêm tốn và đơn sơ hoặc trang
trọng và vẻ vang, cần được xem như sự nối dài công việc của Đấng Tạo
Hoá, như một ân huệ cho người anh em của mình và cuối cùng như một việc
thực thi chương trình của Thiên Chúa trong lịch sử.
Thiên Chúa dựng
nên con người, để con người có thể phát triển và sinh hoa kết quả. Nhờ
việc làm, con người phát triển những gì Thiên Chúa đã tạo dựng, đem lại
cho chúng ý nghĩa và những giá trị mới. Theo một ý nghĩa nào đó, qua
việc làm, con người tái-tạo-dựng. Hơn nữa, khi làm việc mà trong tình
trạng ân sủng và minh nhiên hiến dâng lên cho Thiên Chúa, thì việc làm
sẽ mặc lấy một giá trị lớn lao. 19- Đâu là sứ điệp của Luật Dòng liên quan đến Hôn Nhân và Gia Đình? (Luật Dòng điều 17)
Luật Dòng có cả một điều khoản dành riêng cho Hôn Nhân và Gia Đình, vì một số đông PSTT ở trong bậc sống này.
Người
chồng và người vợ phan sinh phải tìm kiếm sự thánh thiện qua việc hoà
hợp lý trí và con tim, động viên nhau trong lúc gặp thử thách cũng như
trong thời gian thuận lợi để luôn trung thành bắt chước Đức Kitô.
Việc
chu toàn các bổn phận thuộc đấng bậc mình làm cho mình nên thánh. Đó là
làm gương sáng cho và với con cái, chu toàn công việc thường ngày và
kinh nguyện, tạo bầu khí tương trợ và thông hiểu nhau, quan tâm đến việc
giáo dục nhân bản Kitô giáo cho con cái, hướng dẫn con cái theo đuổi ơn
gọi trong cuộc sống và cuối cùng là chia sẻ những ân phúc thiêng liêng
với các gia đình khác, cả đến các hoạt động tông đồ. 20- Người PSTT phải cảm nhận như thế nào đối với tạo vật sống động và không sống động? (Luật Dòng điều 18)
Thánh
Phanxicô thành Assisi, vị thánh của tình huynh đệ đại đồng, đấng đã gọi
mọi tạo vật là “anh” là “chị”, Ngài phải là mẫu gương cho người PSTT.
Được
đức tin gợi hứng, người PSTT coi mọi tạo vật như biểu lộ đầu tiên của
Thiên Chúa về chính mình cho loài người, và như một phản ảnh rõ ràng và
trong sáng về vinh quang Thiên Chúa. Chính qua cách thức này mà họ tìm
cách gặp gỡ Đức Kitô, Đấng qua và nhờ Ngài mà mọi vật được hiện hữu.
Mọi
cố gắng phải được người PSTT thực thi để ngăn chận việc khai thác vô
trách nhiệm trên vũ trụ, đặc biệt trong việc phát triển các đô thị và kỹ
nghệ hoá. Bởi vì chúng ta không chỉ hưởng dùng tạo vật, mà chúng ta
cũng phải bảo vệ, giữ gìn và phát triển tạo vật nữa. Theo quan điểm Phan
sinh, mọi tạo vật đều mang “dấu tích của vết chân Thiên Chúa”/ 21- Liên quan đến hòa bình, Luật Dòng đòi hỏi gì nơi người PSTT? (Luật Dòng điều 19)
Họ
phải là người cổ võ cho hòa bình trong Huynh Đệ Đoàn, trong gia đình,
trong xã hội bao quanh họ, và cả giữa các dân tộc. Điều này họ thực hiện
qua lời nói, việc làm và lối đối xử bên ngoài. Hòa bình là hoa quả của
công lý, và những phương thế để đạt hoà bình là kính trọng nhân phẩm và
thực thi tình yêu huynh đệ.
Người PSTT được linh hoạt bởi một thái độ
Phúc Âm về sự dịu dàng, tận tụy và đối thoại, hơn là đối đầu và tìm
cách thống trị mọi người. 22- Người PSTT cổ võ niềm vui thánh thiện như thế nào?
Niềm
vui Kitô giáo giả thiết và vượt qua niềm vui tự nhiên. Niềm vui Kitô
giáo phát xuất từ sự bình an nội tâm của lương tâm, và là kết qủa của
những việc làm tốt lành.
Nó đến từ một cảm thức được bình an trong bàn tay Thiên Chúa, cũng như đến từ niềm hy vọng chắc chắn sẽ được sống vĩnh cửu.
Niềm
vui tuyệt đối được tìm thấy khi chấp nhận chịu đựng thử thách vì Đức
Kitô, đặc biệt trong các bệnh tật và nghịch cảnh; và trong một lối sống
đơn sơ và thánh thiện.
Mặc dù niềm vui đích thực không nhất thiết
phải cười nói, nhưng người PSTT phải biểu lộ niềm vui của mình và sự hoà
nhã đối với mọi người.
Họ phải giúp người thân cận đối diện và vượt
qua các vấn đề của cuộc sống cũng như các khó khăn, đồng thời vẫn vui
hưởng các phúc lộc hàng ngày của Thiên Chúa ban nhưng không.
Họ phải nói cho người tội lỗi về niềm vui khi được trở lại cùng Thiên Chúa.
Niềm
vui Phan Sinh phải là ân cần đối với người đau yếu bệnh tật và người
cao tuổi, không hẳn như một dấu hiệu thông cảm, mà là một sự trợ giúp
trong việc đánh giá và làm nhẹ đi các nỗi khổ đau. Vì các nỗi khổ đau
chịu đựng khi đang sống trong tình trạng ân sủng phải được hiểu như là
tiếp tục và hoàn thành các nỗi thống khổ của Đức Kitô. 23- Luật Dòng dạy gì liên quan đến cái chết?
Kết
thúc chương II nói về cái chết. Chết là một thực tại mà không ai thoát
được. Người Kitô hữu được tháp nhập vào Đức Kitô qua Phép Rửa; và qua
cái chết, người Kitô hữu được nhận chìm một cách đầy đủ vào cái chết và
sự sống lại của Đức Kitô. Hơn nữa, như lời Thánh Phanxicô, người PSTT
hãy đón nhận “Chị Chết” với sự thanh thảnh Kitô giáo và niềm vui đích
thực, biết rằng chết không phải là chấm hết, nhưng đúng hơn là biến đổi
từ hiện hữu xác phàm và chóng qua để đi vào hiện hữu vĩnh hằng và đích
thực.
CHƯƠNG III ĐỜI SỐNG TRONG HUYNH ĐỆ ĐOÀN
1- Chương III Luật Dòng bàn về điều gì? (Luật Dòng điều 20)
Chương III Luật Dòng bàn về tổ chức nội bộ của toàn Dòng PSTT và của các HĐĐ địa phương làm nên toàn Dòng.
Nên
nhớ rằng các hướng dẫn tổng quát mà Luật Dòng đề ra cần được mở rộng và
thích nghi một cách cụ thể trong Tổng Hiến Chương và Nội Quy riêng. 2- Đâu là nhóm cơ bản của Dòng PSTT?
Các HĐĐ khác nhau làm nên Dòng PSTT. Một cách cá vị, mỗi HĐĐ là một tế bào của Hội Thánh và của Dòng.
Mỗi HĐĐ là một pháp nhân trong Hội Thánh, có quyền lợi và nghĩa vụ, phù hợp với Bộ Giáo Luật.
Các HĐĐ được tổ chức và sắp xếp thành địa phương, miền, quốc gia và quốc tế. 3- Ai lãnh nhận trách nhiệm điều hành Huynh Đệ Đoàn? (Luật Dòng điều 21)
Mỗi
HĐĐ được một Hội đồng và một A/C Phục vụ điều hành. A/C Phục vụ được
bầu chọn theo Hiến Chương bởi các thành viên đã tuyên khấn.
Mặc dầu Luật không ấn định thời gian cho trách vụ này; nhưng vẫn nói là “có thời hạn”. Hiến Chương sẽ thích nghị lề luật này.
Khi
chấp nhận trách vụ, A/C Phục vụ và các thành viên của Hội đồng đoan hứa
sẽ dùng mọi khả năng để phục vụ HĐĐ. Danh từ “phục vụ” có nghĩa là “làm
tôi tớ”. 4- Huynh đệ đoàn địa phương được thành lập như thế nào? (Luật Dòng điều 22)
HĐĐ
địa phương nào cũng được phải thiết lập theo giáo luật, nghĩa là phải
hội đủ tất cả các đòi buộc được ghi trong bộ Giáo Luật. Đó là: được Đức
Giám Mục sở tại chấp thuận, sở hữu một văn kiện thiết lập có chữ ký của
bề trên có thẩm quyền của Dòng Nhất hay của vị đại diện của ngài. 5- Huynh đệ đoàn địa phương nghĩa là gì?
Một
HĐĐ địa phương, cho dù có ít người, vẫn là một tế bào của toàn Dòng;
bởi vì HĐĐ này được Hội Thánh nhìn nhận, có những vị thừa hành chính
thức, và đang tìm cách để thực hiện lối sống Phan sinh. Vì vậy phải được
gọi một cách đích xác là một phần của Dòng.
Cũng thế một HĐĐ địa
phương là một tế bào của Hội Thánh, và đích xác là một phần của Hội
Thánh. Đây có thể là một đòn bẩy cho nhiều hoạt động tông đồ lớn lao. 6- Ai nhận các thành viên vào Dòng PSTT? (Luật Dòng điều 23)
Đơn xin gia nhập phải được trình cho HĐĐ địa phương và Hội đồng của HĐĐ này quyết định chấp nhận hay không chấp nhận ứng sinh.
Việc chấp nhận chính thức một ứng sinh phải được ghi lại và lưu giữ trong văn khố của HĐĐ. 7- Đâu là tiến trình trở nên một thành viên của HĐĐ?
Sau
khi Hội đồng chấp nhận một ứng sinh, có ba giai đoạn phải tuân giữ
trong tiến trình trở nên một người PSTT. Đó là Khai tâm (Tìm hiểu), Huấn
luyện khởi đầu (Chuyên tập), và cuối cùng là tuyên khấn giữ Luật Dòng
(Thường huấn). Luật mới không nói gì đến Thời kỳ Khai Tâm, vì vậy Tổng
Hiến Chương sẽ đưa ra các hướng dẫn cụ thể. 8- Có điều khoản nào cho giai đoạn huấn luyện không?
Luật Dòng chỉ nói một câu là thời gian cho việc huấn luyện phải kéo dài ít nhất là một năm. 9- Ai chịu trách nhiệm về việc hướng dẫn và huấn luyện các ứng sinh?
Toàn
thể HĐĐ được giao phó và chịu trách nhiệm về việc phát triển và lớn lên
về mặt thiêng liêng của các ứng sinh. Toàn thể HĐĐ có bổn phận huấn
luyện các ứng sinh qua việc học tập và đời sống gương mẫu. Ngoài ra
trách nhiệm đặc thù thuộc về người Phụ Trách Huấn Luyện và vị Trợ Úy. 10- Đâu là tuổi đòi buộc để được tuyên khấn?
Luật Dòng không ấn định là mấy tuổi, và để cho Nội Quy riêng ấn định. 11- Luật Dòng có nói gì liên quan đến “áo Dòng” hoặc dấu hiệu Phan sinh nào khác?
Trong vấn để này cũng vậy, Luật Dòng không nói gì cụ thể, mà để cho Nội Quy riêng quyết định. 12- Việc tuyên khấn kéo dài bao lâu?
Tự bản chất, việc tuyên khấn là một giao ước vĩnh viễn suốt đời. 13- Các khó khăn nảy sinh trong HĐĐ được giải quyết như thế nào?
Các
vấn để nảy sinh giữa các thành viên của HĐĐ phải đuợc Hội đồng quan
tâm, được bàn luận qua đối thoại huynh đệ, trừ khi sự bảo mật và khôn
ngoan đòi hỏi một cách thức khác. 14- Có được phép loại trừ một thành viên ra khỏi HĐĐ không?
Chỉ
trong trường hợp nghiêm trọng và sau những phương thế khác, vừa pháp lý
vừa Phúc âm, như là khuyên bảo, cảnh cáo, và trừng phạt mà không có kết
qủa.
Tiến trình thải hồi và loại trừ vĩnh viễn thuộc thẩm quyển của
Hội đồng HĐĐ, và phải thực thi phù hợp với các điều khoản của Tổng Hiến
Chương. 15- Đời sống HĐĐ phải được các thành viên cổ võ như thế nào? (Luật Dòng điều 24)
Luật
Dòng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các việc làm tốt nào mà liên kết
được các thành viên với nhau, và mong mỏi các việc làm tốt này luôn được
vun trồng trong mọi hoàn cảnh có thể được.
Các cuộc họp đều đặn và
thường xuyên được Luật Dòng nhắc đến một cách đặc biệt và được tổ chức
tùy theo sự thỏa thuận của các thành viên HĐĐ.
Cũng nên có các hội
họp với các thành viên Phan sinh khác, như với anh em Dòng Nhất, với chị
em Dòng Nhì, với các tu sĩ nam nữ Dòng Ba Tại Viện
Các cuộc hội họp
như thế phải được tổ chức vì ích lợi thiêng liêng hay qua huấn luyện của
các thành viên, qua việc cầu nguyện chung, thuyết trình hay đối thoại.
Luật Dòng nhấn mạnh rằng các cuộc họp như thế phải được tổ chức trước
nhất nhằm thăng tiến và cổ võ đời sống huynh đệ.
Với cùng một suy
nghĩ như thế trong đầu, Luật Dòng nói đến các thành viên đã qua đời.
Các thành viên này tiếp tục là anh chị em của chúng ta. Chúng ta có
trách nhiệm to lớn là dâng lễ và cầu nguyện cho họ. 16- Luật
Dòng nói gì về việc đóng góp cho các chi phí cần thiết của HĐĐ địa
phương và của Hội đồng cấp cao hơn? (Luật Dòng điều 25)
Luật
Dòng nói rằng các đóng góp cho HĐĐ phải được thực thi tùy theo khả năng
của mỗi thành viên. Những ai được hưởng những phúc lành vật chất to lớn
hơn nên đóng góp nhiều hơn; những ai yếu kém kinh tế thì đóng góp ít. 17- HĐĐ phải sử dụng của đóng góp của các thành viên như thế nảo?
Trước
tiên phải được dùng để thanh toán các chi phí nội bộ của HĐĐ; tiếp đến
là các sinh hoạt tôn giáo, như là xin lễ cho các thành viên đã qua đời;
rồi các chi phí hoạt động tông đồ bác ái, truyền giáo, giúp đỡ người
nghèo… 18- Các HĐĐ có bổn phận phải đóng góp cho chi phí của các HĐĐ cấp cao hơn không?
Các
HĐĐ địa phương có bổn phận đóng góp cho các HĐĐ cấp cao hơn (Miền, Quốc
Gia, Quốc Tế) để hỗ trợ chi phí các cuộc hội họp, kinh lý vì ích lợi
chung của toàn Dòng. Hiến Chương và Nội Quy riêng sẽ ấn định đường lối
và cách thức đóng góp như thế nào. 19- Dòng PSTT nhận sự trợ giúp tinh thần như thế nào? (Luật Dòng điều 26)
Vì
sự hiệp nhất của gia đình Phan Sinh và để biểu lộ sự hiệp thông và đồng
trách nhiệm của toàn gia đình Phan Sinh một các cụ thể hơn, việc trợ
giúp tinh thần cho Dòng PSTT phải được các Bề Trên của 4 nhánh gia đình
Phan Sinh đảm nhận (nhánh Tuân Thủ, nhánh Tu Viện, nhánh Lúp Vuông, và
Dòng Ba Tại Viện) 20- Đâu là vai trò của người Trợ Úy tinh thần?
Các
tu sĩ trợ giúp các HĐĐ của Dòng PSTT không như là các Giám đốc hay Bề
trên, nhưng là những người anh em và những người đồng hành, được kêu gọi
đến cùng một lối sống đặc sủng của Thánh Phanxicô.
Vị Trợ Úy tinh thần cho Dòng PSTT hãy là:
-
Một dấu chỉ và chứng tá cho đoản sủng Phan sinh qua việc hiểu biết về
linh đạo Phan sinh và qua gương sống. Các ngài hãy tỉnh thức trong việc
bảo đảm sự tuân giữ trung thành và liên tục bảo đảm sự tuân giữ trung
thành và liên tục đoản sủng của Thánh Phanxicô bên cạnh các PSTT.
-
Các ngài hãy là “người Anh lớn” của PSTT, cung cấp sự trợ giúp tinh thần
và cố vấn trong lối Phan sinh bằng cách cổ võ khích lệ trong việc tông
đồ của người PSTT. Nếu là một linh mục, ngài cũng có bổn phận giáo dục
anh chị em trong đức tin. Tuy nhiên việc điều hành HĐĐ vẫn thuộc trách
nhiệm của chính HĐĐ.
- Cuối cùng vị Trợ Úy phải là mối dây liên kết hiệp thông giữa Dòng Nhất và Dòng Ba Tại Viện và Dòng PSTT. 21- Đâu là tiến trình xin vị Trợ Úy?
Mọi
tu sĩ Dòng I và Dòng III Tại Viện, linh mục hay không linh mục, đều có
thể được chỉ định là Trợ Úy tinh thần. Tuy nhiên, các vị đó phải có một
sự hiểu biết đầy đủ và một tình thương đối với Dòng PSTT.
Trách nhiệm
của các Hội đồng địa phương, Miền, Quốc Gia và Quốc Tế là xin các vị Bề
Trên Dòng I, và Dòng III Tại Viện cung cấp Trợ Úy có khả năng để được
giúp. 22- Luật Dòng nói đến mấy hình thức kinh lý?
Luật Dòng không nói đến “kinh lý theo giáo luật”. Thay vào đó nói đến hai hình thức thăm viếng mục vụ và huynh đệ.
Thăm
viếng mục vụ là phần hành của Dòng I và Dòng III Tại Viện đối với các
HĐĐ. A/C Phục vụ với sự đồng ý của Hội đồng xin các vị Bề Trên giúp cho
công việc này. Luật Dòng không ấn định một thời gian cố định nào để xin
thăm viếng mục vụ cho một HĐĐ.
Mục đích của thăm viếng mục vụ: thứ
nhất là lượng giá sự trung thành của người PSTT trong việc tuân giữa
đoản sủng Phan Sinh, và sau đó là xem xét việc tuân giữa Luật Dòng, cũng
như để cổ võ sự phát triển thiêng liêng và tông đồ của HĐĐ.
Thăm
viếng huynh đệ là phần hành của Hội đồng cấp cao hơn đối với HĐĐ. Vì vậy
phải trình lên Hội đồng cấp cao hơn để xin thăm viếng, và phải tuân
theo các hướng dẫn của Tổng Hiến Chương.
Lược dịch: Irênê Nguyễn Thanh Minh, ofm
Nguồn:
The Rule of the Secular Franciscan Order with a Catechism and
Instruction – reprint by Franciscan Press, Quincy University, 1800
College Avenue, Quincy, Il 62301-2699