NGƯỜI NỮ TRONG DÒNG PSTT “MÁ ROSA” MỘT NGƯỜI DÒNG BA TRÊN ĐƯỜNG NÊN THÁNH Claudio Bratti OFM
Eurosia
Fabris chào đời tại một thành phố nhỏ thuộc tỉnh Vicenza (Ý) vào ngày
27.09.1866. Khi còn là một cô bé, chị đã đặc biệt cảm thấy bị thu hút
vào việc cầu nguyện và vào một đời sống trong Thiên Chúa. Việc cầu
nguyện đã đưa chị tới chỗ thường xuyên tìm kiếm và ao ước làm theo ý
Thiên Chúa. Năm 20 tuổi, chị cưới Carlo Barban, một người đàn ông góa vợ
với hai người con, một đứa 20 và một đứa 4 tháng tuổi. Sau khi liên tục
cầu nguyện và tham khảo ý kiến của cha mẹ và cha giải tội của mình, chị
chấp nhận lời cầu hôn của Carlo, xem đó như ý Thiên Chúa muốn cho chị.
Chị đã bị đánh động nhiều bởi hai đức bé, sau đó chị gởi gắm chúng cho
Antonio là người anh của chị. “Chính Chúa đặt để tôi trên con đường này
và tôi để Ngài dẫn dắt. Thực vậy, tôi lập gia đình là để hy sinh bản
thân mình! Tôi đã cưới anh Carlo góa vợ, vì tôi thương xót mấy đứa nhỏ
và cảm thấy có thể nuôi nấng hai đứa trẻ mồ côi mẹ. Tôi muốn trở thành
một người mẹ cho chúng, bảm đảm nuôi dưỡng chúng thật tốt, vì tôi thề
hứa giáo dục chúng trong Chúa theo cách thức của tôi”. Trong nhà chị,
cùng với chồng và hai đứa bé, là Chiara Angela và Italia, còn có thêm
ông bố chồng và người anh rể của chị. Chị Eurosia, gọi đơn giản là
Chị Rosa, yêu thương mấy đứa bé như những đứa con của chị và còn chín
đứa khác là con riêng của chị: ba người con đã trở thành linh mục (một
người tu Dòng Phanxicô), ba người con khác thì đã lấy vợ sinh con, làm
thành những gia đình hài hòa. Người con trai út vào chủng viện, nhưng
sau đó đã qua đời khi đang còn tu học dở dang. Cô Chiara Angela dâng
mình cho Chúa trong Dòng Các Nữ tu Lòng Thương Xót, với tên dòng là
Teofania; người kia là cô bé Italia, đã chọn đời sống hôn nhân. Trong
cuộc chiến tranh 1915 – 1918, một người cháu của chị đã qua đời đang
khi chồng cô ta còn trong quân đội, đã để lại 3 người con, hai gái và
một trai mới 10 tháng tuổi. Không ai trong số bà con muốn chăm sóc
chúng. Chị Rosa, được sự đồng ý của chồng và trên hết tin tưởng vào sự
Quan phòng của Thiên Chúa, đã nhận mấy đứa trẻ như con cái trong nhà.
Như vậy, Rosa là một người mẹ có tới 14 đứa con! Năm 1916, một huynh
đệ đoàn Dòng Ba Phan sinh đã được thành lập tại Marola gần Vicenza. Các
anh em hèn mọn thuộc tu viện Santa Lucia ở gần bên tại Vicenza làm trợ
úy. Eurosia Fabris Barban là người đầu tiên đã ghi tên đăng ký và con
trai của chị là Sante Luigi Barban đã có gia đình và là cha của 11 đứa
con cũng theo chị đăng ký gia nhập. Linh đạo Phan sinh là động lực
thúc đẩy nâng đỡ Rosa. Thánh Phanxicô, khởi đi từ Phúc âm, đã tập trung
tư tưởng ngài vào 3 mầu nhiệm trong cuộc đời Đấng Cứu Thế: Nhập Thể,
Đóng Đinh và Thánh Thể, và Rosa đã đi theo bước chân ngài. Chị thường
quy chiếu về cuộc thương khó của Chúa và kết quả là chị gớm ghét tội
lỗi và tỏ lòng trắc ẩn đối với những người tội lỗi. Chị nói với các con:
“Nếu trở nên xấu xa và xúc phạm đến Chúa, thì mẹ luôn hết lòng cầu xin
thà các con chết trong tình trạng ân sủng của các con còn hơn”. Chị đã
cầu nguyện và dâng sự mệt nhọc và nỗi đau khổ trong ngày để cho các tội
nhận được ơn hoán cải. Lòng yêu mến đối với Thánh Thể nơi chị đã thúc
đẩy chị quan tâm đến việc gìn giữ nhà thờ thanh sạch và ngăn nắp, và
chị muốn các con chị ăn mặc sạch sẽ khi đến nhà thờ: “Trước mặt Chúa,
người ta phải thanh sạch trong tâm hồn và trong cách ăn mặc”. Cung cách
chị cầu nguyện cũng thực nổi bật: “Trong nhà thờ, việc cầu nguyện đã thu
hút chị, chị chắp hai tay lại hoặc gục đầu dấu mặt trong đôi tay,
chuyên chú cầu nguyện một cách sâu sa”. Có thời gian rảnh rỗi là chị đều
tận dụng để cầu nguyện. Việc suy niệm cuộc thương khó của Chúa đã
đưa dẫn chị tới một tình yêu âu yếm đối với Thiên Chúa và tới chỗ sống
vâng phục và bác ái. Chị vâng theo các giới răn của Thiên Chúa và các
chỉ thị của Giáo hội. Giai đoạn lịch sử trong đó chị sống thực là đặc
biệt, tại nước Ý, vì cái được gọi là vấn đề Rôma, là hậu quả cuộc chinh
phục bằng sức mạnh của Nhà Nước thuộc Đức Giáo hoàng. Đức Giáo hoàng
thường bị các chính trị gia, các phóng viên và những người trí thức công
kích. Má Rosa cảm thấy đau khổ vì điều này và xác tín rằng Đức Giáo
hoàng “là vị Đại diện Chúa Kitô, Chúa chúng ta trên trái đất và là cha
các tâm hồn”. Người yêu mến Đức Giáo hoàng là người yêu thương Thiên
Chúa; do đó, chúng ta phải yêu mến, kính trọng, vâng lời và cầu nguyện
cho Đức Giáo hoàng”. Sự vâng lời của Má Rosa mặc lấy hình thức đi tìm
kiếm ý Thiên Chúa trong cuộc đời của má. Chị nhìn thấy ý Chúa biểu lộ
trong những điều nhỏ bé như: một người chồng “gắt gỏng và khó chịu”, một
ông bố chồng điếc lác khó làm vừa lòng, một ông anh rể nghiện hút xì gà
lâu năm và có tật cờ bạc và đàn đúm với bạn bè xấu. Má Rosa đã có thể
làm hài lòng những đòi hỏi của họ và giúp họ giảm bớt các đòi hỏi đó,
bằng lời nói và gương sáng, sửa sai cách sống của họ và đưa họ tới gần
với việc giữ đạo hơn. Chị đã cố gắng làm mãn nguyện tất cả các con, con
riêng cũng như con nuôi phù hợp với quy tắc của nền giáo dục tốt. Má
Rosa tự thánh hóa bản thân bằng cách chấp nhận trở nên người vợ và người
mẹ như là một việc truyền giáo mà Thiên Chúa trao phó cho chị. Lòng
bác ái của Má Rosa cũng thực giản dị. Thời kỳ Chị sống là một giai đoạn
nghèo khổ. Những ảnh hưởng kinh tế của cuộc chiến tranh 1915 – 1918 kéo
dài và cái nghèo hiện diện khắp nơi. Nhà Barban cũng nghèo, tuy có đất
đai sản xuất nhưng phải trả những khoản nợ cũ và phải chăm sóc và nuôi
ăn cho một gia đình đông người. Má Rosa không bao giờ ham muốn được trở
nên giàu có: “Tôi nghĩ nếu tôi giàu, có lẽ tôi không được hạnh phúc như
bây giờ. Chúa Giêsu cũng nghèo, và Ngài làm chủ cả thế giới. Chúa Giêsu
và Mẹ Maria đều nghèo”. Chị muốn bắt chước Đấng Cứu Thế của chị. “Thậm
chí Chúa Giêsu rất nghèo, và tôi không ao ước điều gì khác hơn là tình
yêu của Chúa”. Trong hoàn cảnh đó, Má Rosa vẫn có thể cho đi những gì
mình có như: vụ mùa trong vườn và gà trong chuồng, thời gian để giúp đỡ
và khuyên nhủ kẻ khác đúng lúc. Bụng đói, nhưng chị vẫn lên đường để tới
giúp đỡ cho một gia đình nghèo. Có những điều nhỏ mọn, những việc nhỏ
bé, bình thường nhưng quý báu mà đời sống thường ngày cống hiến. Là
một thợ may khéo tay, nên Má Rosa luôn có một nhóm thiếu nữ để dạy họ
may vá, mà không đòi hỏi bất cứ một khoản phí nào. Chị cư xử như một
người mẹ, tận dụng mọi cơ hội để dạy cho nhóm thiếu nữ các giá trị nhân
bản và Kitô giáo. Chị chuẩn bị cho các thiếu nữ lãnh đạo các gia đình
kitô hữu. Chị qua đời ngày 08.01.1932. Qua các chứng từ được tiến
trình Giáo luật cung cấp, chúng ta có thể thấy một số khía cạnh trong
con đường đơn giản để nên thánh của Eurosia Fabris Barban, con đường đó
cũng dành cho hết mọi người là những Má Rosa. (Anh Antonio nói về chị):
“Chị đã làm mọi sự vì vinh quang Thiên Chúa và để cứu vớt các linh hồn”;
(một người hàng xóm nói về chị): “Đời sống thường ngày của Rosa Barban
được dành để chu toàn các việc bổn phận của chị một cách có ý thức trong
tư cách là người vợ và người mẹ”; (một trong số các học trò của chị
nói): “Chị tích cực và cần mẫn sống đức tin; chị thực sự đặc biệt, chính
trực trong đời sống thường ngày nơi gia đình”; (một người học trò khác
nói): “Chị thực thi việc tông đồ của chị bằng cách nêu gương sáng và
bằng lời nói”. Cha xứ của chị đã nói một cách đơn giản: “Đời sống của
Rosa Barban được dành cho Thiên Chúa và cho gia đình”. Ngày 22 tháng
06 vừa qua, Giáo hội đã chính thức công nhận một phép lạ của Eurosia
Fabris Barban. Chị sẽ sớm được công bố là Chân Phước.
(theo www.ciofs – ts Giuse ofm chuyển ngữ)
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét